HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM |
Số: 04/2017/NQ-HĐTP |
Hà Nội, ngày 05
tháng 05 năm 2017 |
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật tổ chức Tòa án
nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Để áp dụng đúng và thống
nhất một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự
ngày 25 tháng 11 năm 2015;
Sau khi có ý kiến thống nhất của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT
NGHỊ:
Nghị
quyết này hướng dẫn một số quy định về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn
khởi kiện lại vụ án tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật
tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 (sau đây gọi
tắt là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Điều 2. Về người khởi kiện không có quyền
khởi kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Người khởi kiện không có
quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
1.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186, Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
a)
Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp
người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính
mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà
mình là người đại diện hợp pháp;
b)
Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp
người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có
quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi
ích của Nhà nước.
Ví
dụ: Tổ chức A (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty B bán hàng hóa không
đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết,
quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc chị C (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức A
làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường thiệt hại cho
chị C. Trường hợp này, Tổ chức A
không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 187 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
2. Yêu cầu khởi kiện của cơ
quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết
luận là không có việc quyền và lợi ích hợp
pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Ví
dụ: Cụ A chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và
không có thỏa thuận khác. Cụ A có con là ông B (còn sống, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản
theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015). Trường hợp này,
theo quy định của pháp luật về thừa kế thì anh C là con của ông B không có quyền khởi
kiện yêu cầu chia di sản của cụ A theo pháp luật.
Điều 3. Về chưa có đủ điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
1. Chưa có đủ điều kiện
khởi kiện theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự,
pháp luật khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác,
lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện
đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
Ví
dụ: Công ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng
ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa
vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên,
sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông
B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ
tục hòa giải của hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định
tại Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Công
ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.
2.
Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định
tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác
định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác
liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến
quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung
của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.
Điều 4. Về vụ án không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Vụ án không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp luật thì
các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khác giải quyết.
Ví
dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm
2013 thì tranh chấp đất đai mà đối với thửa đất đó cơ quan, tổ chức,
cá nhân không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 có
quyền lựa chọn Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 để giải quyết tranh chấp. Trường hợp cơ quan, tổ
chức, cá nhân đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền và cơ quan đó đang giải quyết tranh chấp thì vụ án không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Điều 5. Về địa chỉ của người bị kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. “Địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy định tại điểm
e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được xác định như sau:
a) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn
quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ
chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường
trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú;
b) Nếu người bị kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam
thì nơi cư trú của họ được xác định theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất
cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;
c) Nếu người bị kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài, người Việt Nam đang cư
trú ở nước ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn cứ vào tài liệu, chứng
cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm
quyền cấp, xác nhận;
d) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là cơ quan, tổ chức có quốc tịch Việt Nam thì địa chỉ của cơ quan, tổ
chức được xác định là nơi cơ quan, tổ chức đó có trụ sở chính hoặc chi nhánh
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo quy định của pháp
luật;
Trường hợp cơ quan, tổ chức
có quốc tịch nước ngoài thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định căn cứ
vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ
do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận.
2.
Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở”
của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng
quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn
khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ
khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã
ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015.
3. Địa chỉ “nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có
trụ sở cuối cùng” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy
định tại điểm đ, e khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là địa chỉ người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đã từng cư trú, làm việc hoặc có trụ sở mà người khởi kiện biết được
gần nhất tính đến thời điểm khởi kiện và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh.
Điều 6. Xử lý việc ghi địa chỉ của người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Trường hợp trong đơn
khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này
thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
2. Trường hợp sau khi thụ
lý vụ án, Tòa án không tổng đạt
được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên
đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:
a)
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ
nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản
thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có
trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay
đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi
cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản
3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được
coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà
không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan;
b)
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ
nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ
quan, tổ chức theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được
coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay
đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy
định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2015 thì
được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ
tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan;
c)
Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên
đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác
minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy
định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết
vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
Trường
hợp sau khi thụ lý vụ án mà phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thì Tòa án yêu cầu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cung cấp địa chỉ của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đó. Nếu nguyên đơn, bị đơn có yêu
cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không
cung cấp được địa chỉ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ
theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ thì
đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn,
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có liên quan đến
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó theo quy định tại điểm
h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng
dẫn tại khoản 3 Điều này.
3. Tòa án vẫn tiếp tục giải
quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với vụ án tranh chấp
về thừa kế tài sản có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế
mà nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ và Tòa án đã tiến hành các biện pháp
để thu thập, xác minh địa chỉ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không
xác định được địa chỉ của người đó thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo quy
định của pháp luật. Phần tài sản mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa chỉ được nhận thì Tòa án tạm giao cho
người thân thích của người đó hoặc người thừa kế khác quản lý. Quyền, nghĩa vụ
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa
chỉ sẽ được Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu;
b)
Các trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 5 và điểm c
khoản 6 Điều 477 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
c) Các trường hợp khác theo
quy định của pháp luật.
4. Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết
theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì theo quy định tại điểm
d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung
cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Điều 7. Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy
định tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015
1.
Người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1
Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các trường hợp khác mà
pháp luật có quy định.
2. Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không
quy định căn cứ trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, vì
vậy, Tòa án không được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để trả lại đơn khởi
kiện. Trường hợp kể từ ngày 01-01-2012, Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do
thời hiệu khởi kiện đã hết và thời hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại vụ án đó thì
Tòa án xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
3. "Các trường hợp khác theo quy định của pháp
luật" quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 là các trường hợp trong Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 chưa quy định nhưng đã được quy định trong Nghị quyết này, các văn bản
quy phạm pháp luật khác hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
"Các trường hợp khác
theo quy định của pháp luật" quy định trong Nghị quyết này là:
a)
Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày
01-01-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời
hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện
lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ
luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối
với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017
đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết)
đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có
quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ
án đó;
b)
Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn
10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017
Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì
chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm
2015 thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó
vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản
thừa kế theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và
Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Đối
với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10
năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải
quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó;
c) Trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 6 Nghị quyết này.
1. Nghị quyết này đã được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 4 năm 2017
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2017.
2. Đối với những vụ án dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà Tòa án đã thụ lý
trước khi Nghị quyết này có hiệu lực thi hành nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
thì áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để giải quyết.
3. Đối với bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực
thi hành thì không áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
4. Trong quá trình triển
khai thi hành, nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án
nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn
kịp thời.
|
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét