QUỐC HỘI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3-LCT/HĐNN8 |
Hà Nội, ngày 29
tháng 12 năm 1987 |
LUẬT
ĐẤT
ĐAI CỦA QUỐC HỘI SỐ 3-LCT/HĐNN8 NGÀY 29/12/1987
Đất đai là
tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay
thế được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta tốn bao
công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như
ngày nay.
Để nâng cao
tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ và sử dụng
đất đai, bảo vệ môi trường, đưa việc quản lý và sử dụng đất đai vào quy chế
chặt chẽ, khai thác tiềm năng của đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả, triệt
để tiết kiệm đất, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công
bằng xã hội, từng bước đưa nông nghiệp, lâm nghiệp lên sản xuất lớn, phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Căn cứ Điều
19, Điều 20 và Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này quy
định chế độ quản lý và sử dụng đất đai.
Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước giao
đất cho các nông trường, lâm trường, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, xí nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội và cá nhân-dưới đây gọi là người sử dụng đất-để sử dụng ổn định, lâu dài.
Nhà nước còn
giao đất để sử dụng có thời hạn hoặc tạm thời.
Người đang sử
dụng đất đai hợp pháp được tiếp tục sử dụng theo quy định của Luật này.
Nhà nước
khuyến khích đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tựu khoa
học - kỹ thuật vào việc:
- Thâm canh,
tăng vụ, nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất;
- Khai hoang,
vỡ hoá, lấn biển, phủ xanh đất trống đồi núi trọc để mở rộng diện tích đất sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối;
- Bảo vệ, cải
tạo đất, làm tăng độ mầu mỡ của đất.
Nhà nước bảo
đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi hợp pháp trên đất được
giao, kể cả quyền chuyển, nhượng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tư trên
đất được giao khi không còn sử dụng đất và đất đó được giao cho người khác sử
dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Mọi người sử
dụng đất có trách nhiệm thực hiện các chính sách của Nhà nước nhằm bảo vệ, cải
tạo, bồi bổ và sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm.
Người sử dụng
đất phải nộp thuế sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm
việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận
đất được giao mà không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, tự tiện sử dụng
đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm huỷ hoại đất đai.
Quốc hội thực
hiện quyền quyết định, quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng
đất đai trong cả nước.
Hội đồng bộ
trưởng thực hiện quyền quản lý Nhà nước đối với việc sử dụng, bảo vệ và cải tạo
đất đai.
Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với đất đai
trong địa phương mình theo thẩm quyền được quy định trong Luật này.
Thủ trưởng
các ngành trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình tổ chức và quản lý
việc sử dụng đất đai do Nhà nước giao cho các tổ chức thuộc ngành mình sử dụng.
Cơ quan quản
lý đất đai ở Trung ương và địa phương có nhiệm vụ giúp Hội đồng bộ trưởng và Uỷ
ban nhân dân các cấp thực hiện việc thống nhất quản lý Nhà nước đối với đất
đai.
Mặt trận Tổ
quốc, Công đoàn, Hội nông dân tập thể, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ, các hội khoa học và các tổ chức xã hội khác cũng như mọi
công dân đều có nhiệm vụ hỗ trợ các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các
biện pháp nhằm bảo vệ và sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm.
Các cơ quan
Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm xem xét
đầy đủ các kiến nghị của các tổ chức xã hội và cá nhân trong việc thực hiện các
biện pháp bảo vệ và sử dụng đất đai.
Căn cứ vào
mục đích sử dụng chủ yếu, đất đai được phân thành các loại sau đây:
1- Đất nông
nghiệp;
2- Đất lâm
nghiệp;
3- Đất khu
dân cư;
4- Đất chuyên
dùng;
5- Đất chưa
sử dụng.
Việc quản lý
Nhà nước đối với đất đai bao gồm:
1- Điều tra, khảo sát, đo đạc, phân hạng đất đai và lập bản đồ
địa chính;
2- Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai;
3- Quy định
các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các chế độ,
thể lệ ấy;
4- Giao đất
và thu hồi đất;
6- Thanh tra
việc chấp hành các chế dộ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai;
7- Giải quyết
tranh chấp đất đai.
Dưới sự chỉ
đạo thống nhất của Hội đồng bộ trưởng, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương tổ chức, chỉ đạo Uỷ ban nhân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh điều tra, khảo sát, đo đạc, phân hạng
đất đai, lập bản đồ địa chính xã và đơn vị hành chính tương đương.
1- Việc lập
quy hoạch, kế hoạch:
a) Hội đồng
bộ trưởng lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước;
b) Uỷ ban
nhân dân các cấp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong địa phương mình;
c) Các ngành
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của ngành mình.
2- Thẩm quyền
phê chuẩn và xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai:
a) Quốc hội
phê chuẩn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước; Hội đồng nhân dân
các cấp phê chuẩn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của địa phương mình trước
khi trình lên chính quyền cấp trên trực tiếp xét duyệt;
b) Hội đồng
bộ trưởng xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của các ngành ở Trung
ương và quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai của tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và đơn vị hành chính tương đương;
c) Uỷ ban
nhân dân cấp trên xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của Uỷ ban nhân
dân cấp dưới trực tiếp;
d) Uỷ ban
nhân dân mỗi cấp cùng với các ngành cấp trên xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đai của ngành đó tại địa phương;
e) Trong
trường hợp cần bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phải
được sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định tại các điểm a, b,
c, d khoản 2 của Điều này.
Việc quyết
định giao đất phải tuân theo những quy định sau đây:
1- Căn cứ vào
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm xét duyệt
quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này;
2- Căn cứ vào
kế hoạch hàng năm chuyển loại đất từ mục đích sử dụng này sang mục đích sử dụng
khác đã được cơ Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt quy định tại Điều 13 của Luật
này;
3- Căn cứ vào
yêu cầu sử dụng đất đai ghi trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật và trong thiết
kế đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt;
4- Việc quyết
định giao đất đang sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết
định thu hồi đất đó của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quy định tại Điều 15
của Luật này.
1- Hội đồng
Nhà nước phê chuẩn kế hoạch hàng năm của Hội đồng bộ trưởng về việc giao đất
nông nghiệp, đất có rừng sử dụng vào mục đích khác.
2- Hội đồng
bộ trưởng xét duyệt kế hoạch hàng năm của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương về việc giao đất nông
nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác.
Hội đồng bộ
trưởng căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được Quốc hội phê
chuẩn và kế hoạch hàng năm chuyển đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào
mục đích khác đã được Hội đồng Nhà nước phê chuẩn, quyết định việc giao đất để
sử dụng vào mọi mục đích trong những trường hợp cần thiết.
3- Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương
quyết định:
a) Giao đất cho các tổ chức kinh tế quốc doanh để sử dụng vào mục
đích nông nghiệp, lâm nghiệp;
Từ 1 ha trở
xuống đối với đất nông nghiệp, đất có rừng, đất khu dân cư và từ 2 ha trở xuống
đối với đất hoang, đồi núi cho mỗi công trình không theo tuyến.
Từ 3 ha trở
xuống đối với đất nông nghiệp, đất có rừng, đất khu dân cư và từ 5 ha trở xuống
đối với đất hoang, đồi núi cho mỗi công trình theo tuyến.
c) Giao đất
chuyên dùng để sử dụng vào mục đích chuyên dùng, trừ đất thuộc vùng lãnh hải.
d) Xét duyệt
kế hoạch giao đất khu dân cư nông thôn để nhân dân làm nhà ở theo định mức hàng
năm đã được Hội đồng bộ trưởng xét duyệt cho mỗi loại xã.
đ) Giao đất
khu dân cư thuộc nội thành nội thị theo quy hoạch đã được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt.
4- Uỷ ban
nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định:
a) Giao đất
cho các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và cá nhân để sử dụng lâu dài vào sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp;
b) Giao đất
chưa sử dụng cho các tổ chức và cá nhân sử dụng có thời hạn hoặc tạm thời để
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp;
c) Giao đất
khu dân cư nông thôn cho nhân dân làm nhà ở theo kế hoạch đã được Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương xét
duyệt.
5- Uỷ ban
nhân dân quận có thẩm quyền giao đất quy định tại điểm a, điểm b, khoản 4 của
Điều này.
6- Hội đồng
bộ trưởng quy định trình tự, thủ tục giao các loại đất. Cơ quan quản lý đất đai
của trung ương và địa phương, giúp Hội đồng bộ trưởng và Uỷ ban nhân các cấp
trong việc giao đất.
Nhà nước thu
hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp sau đây:
1- Tổ chức sử
dụng đất bị giải thể, chuyển đi nơi khác, hoặc bị thu hẹp mà giảm nhu cầu sản
xuất;
2- Tất cả số người trong hộ sử dụng đất đã chuyển đi nơi khác
hoặc đã chết;
3- Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất được giao;
4- Thời hạn sử dụng đất đã hết;
5- Người sử
dụng đất không sử dụng đất được giao trong 6 tháng liền mà không được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đó cho phép;
6- Người sử
dụng đất vi phạm nghiêm trọng những quy định về sử dụng đất;
7- Đất giao
không đúng thẩm quyền quy định tại Điều 13 của Luật này;
8- Cần sử
dụng đất cho nhu cầu của Nhà nước hoặc của xã hội.
Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định giao đất nào thì có quyền thu hồi đất đó.
Trong trường
hợp có nhu cầu khẩn cấp của chiến tranh hoặc chống thiên tai thì việc thu hồi
đất do Uỷ ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên
quyết định theo đề nghị của cơ quan chỉ huy quân sự hoặc cơ quan chỉ huy chống
bão lụt.
Việc chuyển
quyền sử dụng đất đai chỉ thực hiện trong các trường hợp sau đây:
1- Khi hộ
nông dân vào hoặc ra hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp;
2- Khi hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp và cá nhân thoả thuận đổi đất cho nhau để
tổ chức lại sản xuất;
3- Khi người
được giao đất chuyển đi nơi khác hoặc đã chết mà thành viên trong hộ của người
đó vẫn còn tiếp tục sử dụng đất đó.
Việc chuyển
quyền sử dụng đất đai nói trong Điều này, nếu ở nông thôn thì do Uỷ ban nhân
dân xã quyết định, nếu ở thành thị thì do Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh quyết định.
Người được
thừa kế nhà ở hoặc người chưa có chỗ ở, khi được người khác chuyển nhượng nhà
để ở, sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu đối
với nhà ở, thì được quyền sử dụng đất ở có ngôi nhà đó.
1- Khi được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho phép chuyển quyền sử dụng, thay
đổi mục đích sử dụng hoặc đang sử dụng đất hợp pháp mà chưa đăng ký thì người
sử dụng phải xin đăng ký đất đai tại cơ quan Nhà nước nói ở khoản 2 của Điều
này.
3- Sau khi đăng ký, người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Hội đồng bộ
trưởng định kỳ tổ chức việc thống kê đất đai về số lượng và chất lượng để phục
vụ kịp thời cho các yêu cầu quản lý, sử dụng đất đai.
Hội đồng bộ
trưởng và Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức việc thanh tra đất đai trong địa phận
quản lý của mình.
Cơ quan quản
lý đất đai ở trung ương và địa phương giúp Hội đồng bộ trưởng và Uỷ ban nhân
dân các cấp thực hiện thanh tra đất đai.
Khi thực hiện
việc thanh tra đất đai, đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên có quyền:
1- Yêu cầu
các tổ chức và cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu cần thiết cho việc thanh
tra;
2- Tạm thời
đình chỉ việc sử dụng phần đất sử dụng không đúng pháp luật;
3- Kiến nghị
với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý những hành vi vi phạm pháp luật đất
đai.
Các tranh
chấp về quyền sử dụng đất đai do Uỷ ban nhân nơi có đất đai bị tranh chấp giải
quyết theo quy định dưới đây:
1- Uỷ ban
nhân dân xã, thị trấn giải quyết các tranh chấp đất đai giữa cá nhân với cá
nhân.
2- Uỷ ban
nhân dân huyện giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức và giữa các
tổ chức thuộc quyền mình quản lý.
3- Uỷ ban
nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết các tranh chấp quy định
tại khoản 1, khoản 2 của Điều này.
4- Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương
giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với nhau, nếu
tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình hoặc trực thuộc Trung ương.
5- Trong
trường hợp không đồng ý với quyết định của Uỷ ban nhân dân đã giải quyết tranh
chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan chính quyền cấp trên. Quyết định
của chính quyền cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.
Khi giải
quyết tranh chấp về nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm thì Toà án nhân
dân giải quyết cả quyền sử dụng đất có nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu
năm đó.
Mục 1: ĐẤT NÔNG NGHIỆP, ĐẤT LÂM NGHIỆP
Đất nông
nghiệp là đất được xác định chủ yếu dùng vào sản xuất nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, kể cả nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về trồng
trọt, chăn nuôi.
Người sử dụng
đất nông nghiệp có nghĩa vụ:
1- Đưa diện
tích được giao vào sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch, kế hoạch, không được bỏ
hoang, bỏ hoá;
2- Thực hiện
các biện pháp thâm canh, tăng vụ, bảo vệ, cải tạo, bồi bổ đất đai và kết hợp
nông nghiệp, lâm nghiệp.
Đất lâm
nghiệp là đất được xác chủ yếu dùng vào sản xuất lâm nghiệp như trồng rừng,
khai thác rừng, khoanh nuôi, tu bổ, cải tạo rừng, nghiên cứu thí nghiệm về lâm
nghiệp; đất rừng cấm, vườn quốc gia; đất trồng rừng để phòng hộ đầu nguồn, bảo
vệ đất, cải tạo môi trường.
Người sử dụng
đất lâm nghiệp có nghĩa vụ:
1- Nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật về quản lý khai thác, bảo vệ rừng và đất lâm nghiệp,
không tự tiện phá rừng, đốt rừng, làm huỷ hoại môi trường.
2- Trồng rừng
phủ xanh diện tích được giao theo quy hoạch, kế hoạch; thực hiện các biện pháp
về thâm canh, bảo vệ đất, chống xói mòn và kết hợp lâm nghiệp, nông nghiệp.
Đất làm kinh
tế gia đình quy định như sau:
1- Các hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp được giao lại cho các hộ
thành viên của mình một diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp trong số đất
được Nhà nước giao sử dụng ổn định, lâu dài để các hộ này làm kinh tế gia đình.
Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương quy
định mức đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được giao cho mỗi hộ ở từng vùng trong
địa phương mình, mỗi người không quá 10% đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp bình
quân cho nhân khẩu của xã.
2- Các nông
trường, lâm trường, trạm, trại nông nghiệp, lâm nghiệp được giao lại cho các hộ
thành viên của mình một diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp trong số đất được
Nhà nước giao sử dụng ổn định, lâu dài để các hộ này làm kinh tế gia đình,
nhưng mỗi hộ nhiều nhất cũng không vượt quá mức quy định cho từng vùng như sau:
a) Đồng bằng
Bắc bộ và đồng bằng miền Trung từ Thanh Hoá đến Thuận Hải: 200 m2;
b) Trung du,
Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long: 500 m2;
c) Miền núi
và Tây Nguyên: 1.000 m2.
Đất sản xuất
của nông dân cá thể quy định như sau:
Các hộ nông
dân cá thể được Nhà nước giao đất ổn định, lâu dài để sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp trên cơ sở đất đai đang sử dụng.
Căn cứ vào
khả năng đất đai, kế hoạch sử dụng đất của địa phương và khả năng sử dụng đất
của từng loại hộ, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và
đơn vị hành chính tương đương quy định mức đất giao cho các loại hộ nông dân cá
thể ở địa phương trên cơ sở bình quân đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp tính theo
nhân khẩu ở mỗi xã.
1- Ở những
nơi còn đất chưa sử dụng thì Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có thể giao loại đất này cho các tổ chức hoặc các hộ thành viên của
hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp,
ngư nghiệp, nghề muối, nông trường, lâm trường, trạm, trại nông nghiệp, lâm
nghiệp, công nhân, viên chức và nhân dân để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
3- Khi giao
đất nói ở khoản 1 và khoản 2 của Điều này phải xác định rõ mục đích và thời hạn
sử dụng để người sử dụng đất yên tâm sản xuất, có thu hoạch thoả đáng so với
công sức đã đầu tư đối với từng loại cây trồng và vật nuôi.
4- Đất được
giao nói trong Điều này không tính vào mức đất làm kinh tế gia đình hoặc mức
đất giao cho nông dân cá thể quy định tại Điều 27 và Điều 28 của Luật này.
Nhà nước
khuyến khích mọi tổ chức và cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vốn để
sử dụng đất đai vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp ở các vùng còn nhiều đất
chưa sử dụng hoặc hiệu quả sử dụng đất còn thấp.
Nhà nước có
các chính sách về đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, tuyển dụng và
thuê mượn lao động, miễn giảm thuế và giá cả nông sản để khuyến khích mọi người
tận dụng đất đai vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
Việc sử dụng
đất vườn quy định như sau:
Đất vườn được
tính vào đất làm kinh tế gia đình xã viên hoặc đất giao cho nông dân còn sản
xuất cá thể, phần còn lại người có vườn vẫn được tiếp tục sử dụng để sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp.
Nhà nước có
chính sách khuyến khích và bảo vệ lợi ích của mọi tổ chức và cá nhân thâm canh,
tăng sản lượng cây trồng trên đất vườn, sử dụng đất trống, đồi núi trọc để lập
vườn theo quy hoạch.
Không được
lập vườn trên đất trồng lúa, trừ trường hợp có phép của uỷ ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh theo kế hoạch sử dụng đất đã được Hội đồng
nhân dân cùng cấp thông qua.
Căn cứ vào
yêu cầu phát triển kinh tế quốc dân, khả năng đất đai và tập quán canh tác ở
từng địa phương, Hội đồng bộ trưởng quy định các hình thức tổ chức sản xuất và
các chính sách thích hợp đối với đất vườn ở mỗi vùng nhằm phát triển sản xuất,
ổn định đời sống và tăng sản phẩm cho xã hội.
Chùa, nhà
thờ, thánh thất tôn giáo đang sử dụng đất hoặc chưa được giao đất sử dụng nếu
có yêu cầu chính đáng và có khả năng sử dụng có hiệu quả thì Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương căn cứ
vào chính sách tôn giáo của Nhà nước và khả năng đất đai của địa phương để
quyết định diện tích đất được giao cho chùa, nhà thờ, thánh thất đó.
Đất khu dân
cư là đất được xác định để xây dựng các thành thị và các khu dân cư nông thôn.
Việc sử dụng
đất khu dân cư ở thành thị phải tuân theo những quy định về từng loại đất nói
trong Luật này, đồng thời phải phù hợp với quy hoạch chung của thành phố, thị
xã, thị trấn.
Đối với thành
phố, thị xã, thị trấn có quy hoạch giao đất cho nhân dân tự làm nhà ở thì Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vụ hành chính tương
đương quy định mức đất giao cho mỗi hộ.
Việc sử dụng
đất để xây dựng nhà ở trong thành phố, thị xã, thị trấn phải theo đúng quy định
của Hội đồng bộ trưởng.
Việc sử dụng
đất khu dân cư ở nông thôn phải theo quy hoạch thuận tiện cho sản xuất, đời sống
của nhân dân và quản lý xã hội. Phải tận dụng những khu dân cư sẵn có, hạn chế
việc mở rộng khu dân cư trên đất nông nghiệp.
Chỉ được giao
đất ở trong khu dân cư cho những hộ chưa có nhà ở.
Căn cứ vào
khả năng đất đai ở từng vùng, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và đơn vị hành chính tương đương quy định mức đất được giao cho mỗi
hộ, nhưng không được quá mức quy định cho từng vùng như sau:
a) Đồng bằng
Bắc bộ và đồng bằng miền Trung từ Thanh Hoá đến Thuận Hải: 200 m2.
b) Trung du,
Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long: 300 m2.
c) Miền núi
và Tây Nguyên: 400 m2.
Đối với những
vùng nhân dân có tập quán nhiều thế hệ cùng chung sống trong một hộ hoặc những
nơi phải giao đất ở vào đất quanh năm ngập nước thì theo đề nghị của Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương, Hội
đồng bộ trưởng có thể quy định mức đất ở cao hơn, nhưng nói chung không vượt
quá một lần rưỡi, trong trường hợp cá biệt, cũng không được vượt quá hai lần
mức đất quy định cho từng vùng tại Điều này.
Đất chuyên
dùng là đất được xác định dùng vào các mục đích không phải là nông nghiệp, lâm
nghiệp hoặc đất khu dân cư như: đất xây dựng các công trình công nghiệp, khoa
học - kỹ thuật, giao thông, thuỷ lợi, văn hoá, xã hội, dịch vụ, đất dùng cho
nhu cầu an ninh, quốc phòng, đất dùng cho thăm dò, khai thác khoáng sản, đất
làm muối, đất làm đồ gốm gạch, ngói và các vật liệu xây dựng khác, đất di tích
lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh, đất nghĩa địa, đất có mặt nước sử dụng
vào các mục đích không phải là nông nghiệp.
Việc sử dụng
đất để xây dựng các công trình công nghiệp, khoa học - kỹ thuật, giao thông,
thuỷ lợi, văn hoá, xã hội, dịch vụ, người việc tuân theo các quy định của Luật
này, còn phải tuân theo các yêu cầu sử dụng đất được xác định trong luận chứng
kinh tế - kỹ thuật và thiết kế của từng công trình.
Việc sử dụng
đất vào mục đích an ninh, quốc phòng phải tuân theo đúng quy hoạch, kế hoạch đã
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Khi sử dụng đất phải triệt để
tiết kiệm và hạn chế đến mức thấp nhất những trở ngại cho việc sử dụng đất đai
của vùng lân cận.
Chỉ những tổ
chức được Nhà nước giao nhiệm vụ thăm dò, khai thác khoáng sản mới được sử dụng
đất để thực hiện mục đích này.
Đất thăm dò,
khai thác khoáng sản, kể cả thăm dò, khai thác đá chỉ được giao sử dụng trong
thời gian thăm dò, khai thác khoáng sản; khi sử dụng xong phải trả lại đất với
trạng thái được quy định trong quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
Nhà nước giao
đất làm muối cho các tổ chức hoặc cá nhân để sản xuất muối; đất này được giao
trên cơ sở đất đang sử dụng.
Những vùng
đất làm muối có năng suất, chất lượng cao phải được bảo vệ, ưu tiên cho việc
sản xuất muối.
Nhà nước
khuyến khích việc sử dụng những vùng đất có khả năng làm muối để phục vụ cho
nhu cầu về muối của xã hội.
Việc sử dụng
đất làm đồ gốm, gạch, ngói và các vật liệu xây dựng khác được giao có thời hạn.
Đất làm gạch,
ngói trước hết phải lấy từ đất đồi núi không sản xuất nông nghiệp, gò, bãi
hoang, lòng sông, ao hồ cần khơi sâu, ven sông ngòi không sản xuất, đê bối cần
huỷ bỏ, đất lấy từ cải tạo đồng ruộng.
Trong trường
hợp không còn các nguồn đất nói trên thì có thể sử dụng những loại đất xấu,
nhưng phải triệt để tiết kiệm. Khi sử dụng xong phải cải tạo ngay để sản xuất
nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản.
Đất làm đồ
gốm hoặc gạch, ngói không nung được chọn ở những vùng đất thích hợp nhưng không
gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
Chỉ những tổ
chức hoặc cá nhân được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định tại
Điều 13 của Luật này mới được sử dụng đất để làm đồ gốm, gạch, ngói và các vật
liệu xây dựng khác.
Đất di tích
lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh là đất có di tích lịch sử, văn hoá, danh
lam thắng cảnh theo quy định của pháp luật.
Đất này phải
được bảo vệ nghiêm ngặt.
Trong trường
hợp đặc biệt cần thiết phải sử dụng đất có di tích lịch sử, văn hoá, danh lam
thắng cảnh vào mục đích khác thì phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quyết định giao đất và phải được sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ văn hoá.
Trong trường
hợp không được sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ văn hoá thì chủ công trình có quyền
kiến nghị lên Hội đồng bộ trưởng.
Đất làm nghĩa
địa phải được quy hoạch thành khu tập trung, xa dân cư, thuận tiện cho việc
chôn cất, thăm viếng, hợp vệ sinh và tiết kiệm đất.
Điều 44
Đất có mặt nước quy định trong Điều này gồm những đất thuộc
vùng lãnh hải, nội thuỷ, sông, đầm, hồ lớn không thuộc sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ mục
đích sử dụng chủ yếu đã xác định cho từng vùng đất có mặt nước, Nhà nước giao
đất này cho các tổ chức và cá nhân thích hợp để sử dụng.
Người sử dụng
đất chuyên dùng có nghĩa vụ:
1- Chấp hành
nghiêm chỉnh các quy định của Hội đồng bộ trưởng về việc sử dụng từng loại đất
chuyên dùng;
2- Thực hiện
các biện pháp để tiết kiệm đất đai, bảo vệ môi trường và không trở ngại cho sản
xuất, đời sống của nhân dân vùng lân cận.
Người được
giao đất nông nghiệp, đất có rừng để xây dựng công trình công nghiệp, khoa học
- kỹ thuật, giao thông, thuỷ lợi, văn hoá, xã hội, dịch vụ, an ninh, quốc
phòng, thăm dò, khai thác khoáng sản, làm đồ gốm, gạch, ngói hoặc vật liệu xây
dựng khác phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước.
Hội đồng bộ
trưởng và Uỷ ban nhân dân các cấp được sử dụng khoản đền bù này vào việc khai
hoang, vỡ hoá, thâm canh, bảo vệ, cải tạo đất, mở mang diện tích đất nông
nghiệp, đất lâm nghiệp.
Đất chưa sử
dụng là đất chưa được xác định để dùng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp,
khu dân cư, chuyên dùng và Nhà nước chưa giao cho ai sử dụng ổn định, lâu dài.
Hội đồng bộ
trưởng lập quy hoạch, kế hoạch và có chính sách khuyến khích các tổ chức và cá
nhân đưa đất chưa sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
Mục 5: NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT
Ngoài những
nghĩa vụ đối với từng loại đất được quy định tại Điều 24, Điều 26 và Điều 45
của Luật này, người sử dụng đất còn có những nghĩa vụ sau đây:
1- Sử dụng
đất đúng mục đích, đúng ranh giới và các điều kiện khác đã được quy định khi
giao đất;
2- Thực hiện
việc bảo vệ, cải tạo và bồi bổ đất đai, không được làm những việc có hại đến
môi trường và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất lân cận;
3- Thi hành
nghiêm chỉnh quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc thu hồi đất;
4- Đền bù
thiệt hại thực tế cho người đang sử dụng đất bị thu hồi để giao cho mình, bồi
hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất đó theo
quy định của pháp luật;
5- Nộp thuế, nộp lệ phí địa chính khi làm thủ tục địa chính theo
quy định của pháp luật.
Người sử dụng
đất có những quyền lợi sau đây:
1- Được sử
dụng đất ổn định, lâu dài, có thời hạn hoặc tạm thời nhưng đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định khi giao đất;
3- Hưởng các lợi ích do công trình công cộng bảo vệ hoặc cải
tạo đất mang lại;
4- Được Nhà
nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo và bồi bổ đất;
5- Khi đất
đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà nước hoặc xã hội thì được đền bù
thiệt hại thực tế và được giao đất khác;
6- Được Nhà
nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất đai hợp pháp của
mình.
Việc giao đất
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức liên doanh, hợp tác
của Việt Nam và nước ngoài để sử dụng do Hội đồng bộ trưởng nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định.
Tổ chức, cá
nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức liên doanh, hợp tác của Việt Nam và
nước ngoài được giao đất để sử dụng phải tuân theo các quy định của Luật này,
trừ trường hợp điều ước quốc tế ký kết giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế có quy định khác.
Địa phương,
tổ chức và cá nhân có nhiều thành tích trong việc quản lý, bảo vệ, cải tạo, bồi
bổ đất đai, mở rộng diện tích đất nông nghiệp, phủ xanh đất trống đồi núi trọc,
tiết kiệm đất trong xây dựng cơ bản thì được khen thưởng, theo quy định của Hội
đồng bộ trưởng.
Người nào
mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tô, huỷ hoại đất đai hoặc có hành
vi khác vi phạm pháp luật đất đai thì bị xử phạt hành chính bằng một hoặc nhiều
hình thức sau đây:
1- Cảnh cáo;
2- Phạt tiền
từ 20% đến 30% giá trị thiệt hại do việc vi phạm gây ra;
3- Tịch thu
toàn bộ tiền mua bán đất;
4- Thu hồi
phần đất sử dụng trái pháp luật.
Việc xử lý
hành chính quy định trong Điều này do Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền quyết
định theo quy định của pháp luật.
Nếu hành vi
vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm thì
bị xử phạt theo Bộ luật hình sự.
Người nào lợi
dụng chức vụ, quyền hạn hoặc vượt quá quyền hạn giao đất, thu hồi đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trái với quy định của pháp luật, thiếu tinh thần
trách nhiệm làm thiệt hại đến tài nguyên đất đai, bao che cho người có hành vi
vi phạm pháp luật đất đai, thì bị xử lý bằng một trong những hình thức sau đây:
1- Cảnh cáo;
2- Phạt tiền;
3- Cách chức;
4- Buộc thôi
việc.
Việc xử lý kỷ
luật quy định trong Điều này do cơ quan chính quyền quyết định theo phân cấp
quản lý cán bộ.
Nếu hành vi
vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm thì bị
xử phạt theo Bộ luật hình sự.
Người nào có
hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà gây thiệt hại cho người khác thì ngoài
việc bị xử phạt theo quy định tại Điều 53 và Điều 54 của Luật này còn phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.
Những quy
định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ.
Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Luật này.
Luật này đã
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 2,
thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1987.
|
Võ
Chí Công (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét