TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM |
Hà Nội, ngày 02 tháng 8
năm 2021 |
Kính gửi: |
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; |
Qua công tác tổng kết thực
tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một
số vướng mắc khi giải quyết các vụ án hình sự, dân sự. Để bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo hướng dẫn tại khoản
1 Điều 3 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65
của Bộ luật Hình sự về án treo thì người phạm tội là người côn đồ
thuộc trường hợp không cho hưởng án treo. Như vậy, trường
hợp người phạm tội bị Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
“phạm tội có tính chất côn đồ” hoặc tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội có
tính chất côn đồ” theo quy định của Bộ luật Hình sự thì thuộc trường hợp không
cho hưởng án treo.
Tuy nhiên, đối với vụ án
hình sự có đồng phạm, khi xét xử Tòa án phải xem xét, đánh giá tính chất, vai
trò, hành vi phạm tội của từng đồng phạm để xác định có thuộc trường hợp “phạm
tội có tính chất côn đồ” hay không.
2. Do có mâu thuẫn nên P, L
đã đánh nhau với Y. Y đã dùng lưỡi dao lam gây thương tích cho P 14%, L 44%.
Vậy Y bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại hai điểm
c, d khoản 3 hay chỉ điểm c hoặc điểm d khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự?
Trường hợp này, Y bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, Y còn gây thương tích cho P 14% nên khi lượng hình cần xem xét cả hậu
quả này.
3. Trường hợp bị cáo phạm
tội lúc chưa đủ 70 tuổi. Tại thời điểm xét xử, bị cáo đã trên 70 tuổi thì có
được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội là người đủ
70 tuổi trở lên” theo quy định tại điểm o
khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự hay không?
Quy định tại điểm o khoản
1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự không phân biệt người phạm tội là người
đã đủ 70 tuổi trở lên tại thời điểm phạm
tội hay trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, trường hợp khi
phạm tội bị cáo chưa đủ 70 tuổi nhưng trong quá trình xét xử họ đã đủ 70 tuổi
trở lên thì Tòa án vẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người
phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên”
đối với họ.
4. Người sử dụng phương
tiện giao thông của người khác gây tai nạn thì thiệt hại đối với tài sản này có
bị coi là gây “thiệt hại cho người khác” quy định tại khoản
1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự không?
Thiệt hại cho người khác quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự được hiểu là thiệt
hại không bao gồm thiệt hại của người gây tai nạn và phương tiện mà người gây
tai nạn sử dụng. Do đó, trường hợp nêu trên không coi thiệt hại từ chính phương
tiện mà họ điều khiển là “thiệt hại cho người khác” dù đó không phải là tài sản
của họ.
Khoản 1 Điều 591 của Bộ
luật Dân sự quy
định: “Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: ...Tiền cấp dưỡng
cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng...”.
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng
cũng là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Đối với trường hợp phải thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án thì chỉ được coi là đã thực
hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại để xét tha tù trước thời hạn có điều
kiện nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đã thực hiện xong hoàn
toàn nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án;
- Đã thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng 01 lần và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận là đã hoàn thành việc cấp
dưỡng;
- Đã thực hiện được một
phần nghĩa vụ cấp dưỡng và có thỏa thuận, xác nhận của đại diện hợp pháp của
người được nhận cấp dưỡng về việc tiếp tục thực hiện hoặc không phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án và được cơ quan có thẩm
quyền xác nhận;
- Chưa thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng nhưng có thỏa thuận, xác nhận của người đại diện hợp pháp của người
được nhận cấp dưỡng về việc không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản
án, quyết định của Tòa án và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
6. Người nghiện ma túy cho
người nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm hoặc có hành vi khác để chứa chấp
người nghiện ma túy cùng sử dụng trái phép chất ma túy thì có bị xử lý hình sự
về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều
256 của Bộ luật Hình sự hay không?
Theo hướng dẫn tại điểm
b tiết 7.3 mục 7 phần II Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 của Bộ Công
an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các
tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì: "b) Người
nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền
sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người nào có đầy đủ các
yếu tố cấu thành tội sử dụng
trái phép chất ma túy, thì
người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy quy
định tại Điều 199 của Bộ luật Hình sự”.
Theo hướng dẫn tại Điều
3 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày
14-11-2015 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 của
Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các
tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình
sự năm 1999 thì: “...Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm
đ tiết 3.7 mục 3 Phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II; mục 8 Phần II của
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT”. Cho đến nay vẫn chưa có văn
bản pháp luật nào hướng dẫn thay thế nội dung này của Thông tư liên tịch
số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP .
Theo quy định tại khoản
1 Điều 256 của Bộ luật Hình sự thì: “Người nào cho thuê, cho
mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma
túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này...”. Quy định này không loại
trừ việc xử lý hình sự đối với người nghiện ma túy có hành vi chứa chấp việc sử
dụng trái phép chất ma túy. Cho nên, đối với trường hợp người nghiện ma túy cho
người nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm để cùng sử dụng ma túy nếu không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự thì
bị xử lý về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Hình sự, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm.
Theo Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30-6-2020 của
Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp nghiệp vụ thì: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được
hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người,
phương tiện; cung cấp ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ... để thực hiện
việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Trong trường hợp này, A là người cung cấp ma
túy cho B, C, D để họ thực hiện việc sử
dụng trái phép chất ma túy. Hành
vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng là một trong các hành vi “tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy”. Do đó, A bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
II. VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ, THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1. Trường hợp Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp vi phạm về thời hạn ra quyết định truy tố bị can và thời hạn
giao cáo trạng theo quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều 240 của Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc
có dấu hiệu sửa chữa ngày ghi biên bản giao nhận hồ sơ vụ án từ cơ quan điều
tra sang Viện kiểm sát để phù hợp với thời hạn luật định. Vậy Tòa án có trả hồ
sơ để điều tra bổ sung hay không?
Trường hợp trên được xác định là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nếu vi phạm này xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình
sự và hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22-12-2017 của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định
việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện một số
quy định của Bộ luật hình sự về trả
hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trường hợp nếu Tòa án không trả hồ sơ thì khi
xét xử và ban hành bản án, Tòa án phải đánh giá, phân tích tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên theo quy định
tại điểm e khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp trên, Tòa án
không ra quyết định thi hành án phạt tù mà ra quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa. Khi bản án
có hiệu lực pháp luật, Tòa án gửi kèm theo bản án quyết định trả tự do cho bị
cáo tại phiên tòa cho cơ quan thi hành án hình sự theo quy định.
3. Thẩm quyền tổng hợp hình
phạt của Tòa án quy định tại khoản
3 Điều 56 của Bộ luật Hình sự được thực hiện
như thế nào?
Thẩm quyền tổng hợp hình phạt của Tòa án theo
quy định tại khoản 3 Điều 56 của Bộ luật Hình sự được
thực hiện như sau:
- Các bản án đã có hiệu lực
pháp luật của cùng một Tòa án thì Chánh án Tòa án đó ra quyết định tổng hợp
hình phạt;
- Các bản án đã có hiệu lực
pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp (cùng cấp huyện trong cùng một tỉnh hoặc khác tỉnh; cùng cấp
khu vực trong cùng một quân khu hoặc khác quân khu; cùng sơ thẩm cấp tỉnh, cùng
cấp quân khu, cùng phúc thẩm ở Tòa án nhân dân cấp cao), thì Chánh án Tòa án ra
bản án sau cùng (về mặt thời gian) ra quyết định tổng hợp hình phạt.
- Các bản án đã có hiệu lực
pháp luật là của các Tòa án không cùng cấp thì Chánh án Tòa án cấp cao hơn đã
có bản án có hiệu lực pháp luật ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của
Tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau.
- Trường hợp trong số các
bản án đã có hiệu lực pháp luật, có bản án của Tòa án nhân dân, có bản án của
Tòa án quân sự, thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện tương tự như trường
hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng
cấp và trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật
là của các Tòa án không cùng cấp như trên.
1. Nhà đất thuộc quyền sở
hữu của vợ chồng ông A, bà B. Ông A làm giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng
nhà đất cho C (việc giả chữ ký đã được chứng minh thông qua việc giám định).
Sau khi chuyển nhượng, ông A, bà B vẫn chiếm hữu, sử dụng nhà đất. Sau đó, C
dùng tài sản này để thế chấp khoản vay tại Ngân hàng. Vậy, giao dịch thế chấp
tại Ngân hàng có bị vô hiệu không? Nếu vô hiệu thì có trái với mục 1
Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải
đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự, tố tụng hành chính (sau đây
gọi tắt là Công văn số 64/TANDTC-PC) không?
Điều 123 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy
định: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của
luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những
quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng”.
Khoản 2 Điều 133 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch vô hiệu
nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao
bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ
vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện
giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”.
Trường hợp này, việc ông A giả chữ ký của bà
B để chuyển nhượng nhà đất cho C mà
không được bà B đồng ý, nên căn cứ Điều 123 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì giao dịch chuyển nhượng nhà đất trên là vô hiệu.
Sau khi nhận chuyển nhượng, C dùng tài sản này thế chấp khoản vay tại
Ngân hàng nhưng khi ký hợp đồng thế chấp tài sản, Ngân hàng không thẩm định,
xác minh nên không biết ông A, bà B vẫn quản lý, sử dụng nhà đất hoặc đã thẩm
định nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh ông A, bà B biết việc thế
chấp tài sản này. Trong trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản (Ngân hàng)
không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản
2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và mục 1
Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC, do vậy, hợp đồng thế chấp tài sản
cũng vô hiệu.
Theo quy định Điều 429
của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện để yêu
cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền
yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Căn cứ quy định nêu trên thì thời hiệu khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng đã hết. Tuy
nhiên, theo quy định khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp "yêu cầu bảo vệ quyền sở
hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác". Do đó, Ngân hàng có thể khởi kiện ông A yêu
cầu đòi lại tài sản (nợ gốc) và Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án mà không phụ
thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ
thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không.
3. Đối với các loại hợp
đồng dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản, hợp đồng vay tài sản của các
cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng tín dụng) thì có áp dụng thời
hiệu khởi kiện như quy định tại Điều
429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 không?
Theo quy định tại khoản
2 và khoản 3 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời
hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
...2. Yêu cầu bảo vệ quyền
sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
3. Tranh chấp về quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật đất đai....”
Theo quy định tại Điều
429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời
hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể
từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm”.
Theo quy định tại khoản
2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tòa án chỉ áp
dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các
bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”.
Do vậy, đối với các tranh chấp về quyền sở
hữu, đòi lại tài sản thì Tòa án không áp dụng thời hiệu không phụ thuộc vào
việc một bên hoặc các bên có hay không có yêu cầu áp dụng thời hiệu. Đối với
các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài
sản, hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp
đồng tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
4. Theo Công văn số 64/TANDTC-PC thì trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu
nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo
đúng quy định của pháp luật, căn cứ Điều
133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch
thế chấp đó không vô hiệu. Như vậy, hướng dẫn này có áp dụng đối với các giao
dịch thế chấp phát sinh trước ngày 01-01-2017 mà nay có tranh chấp không?
Khoản 1 Điều 156 của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được sửa đổi, bổ sung
theo Luật số 63/2020/QH14 năm 2020 quy định: Văn bản quy phạm pháp luật được áp
dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng
đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong
trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.
Như vậy, về nguyên tắc
chung, hành vi xảy ra ở thời điểm nào thì áp dụng pháp luật ở thời điểm đó. Khi văn bản quy phạm pháp
luật cụ thể có quy định khác, như quy định có hiệu lực trở về trước (hồi tố)
thì mới được áp dụng khác với nguyên tắc chung nêu trên.
Căn cứ quy định nêu trên, hướng dẫn tại phần 1 mục I của Công văn số 64/TANDTC-PC được áp dụng
đối với các giao dịch dân sự được thực hiện kể từ ngày 01-01-2017 mà không áp
dụng đối với các giao dịch dân sự được thực hiện trước ngày 01-01-2017.
1. Ông A phải thi hành án
trả cho ông C số tiền là 500 triệu đồng, ông A không tự nguyện thi hành án. Cơ
quan thi hành án xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng 156m2 đất
cùng tài sản gắn liền trên đất, nhưng chưa làm các thủ tục thông báo theo quy
định tại khoản 1 Điều 74 của
Luật Thi hành án dân sự, chưa cưỡng chế thi
hành án đối với ông A. Ông C khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở
hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của ông A trong khối tài sản chung. Sau khi
thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện H ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
với lý do ông C chưa đủ kiều kiện khởi kiện. Vậy, quyết định đình chỉ này của
Tòa án nhân dân huyện H có đúng không?
Theo quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 7 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án
dân sự có quyền: "Khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp
có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án".
Khoản 1 Điều 74 của Luật
Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp chưa xác định được
phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án
trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho
người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản,
quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu
Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm
quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu
Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có
quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài
sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự...”
Theo quy định tại khoản
12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tranh chấp
liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự" là một trong những tranh chấp dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, trong trường hợp này cơ quan thi
hành án dân sự mới chỉ xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng đất
tại thửa đất diện tích 156m2 cùng tài sản gắn liền trên đất mà
chưa làm các thủ tục thông báo theo quy định tại khoản 1
Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự, ông C (người được thi hành án) đã khởi kiện
yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của
người phải thi hành án trong khối tài sản chung là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Do đó, Tòa án nhân huyện H ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự là có căn cứ.
2. Theo Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền
giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá, nếu có yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ
lý giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản
2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì “Tòa
án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp
dụng”. Vậy, Tòa án có được thụ lý giải quyết các trường hợp này không?
Khoản 8 Điều 6 của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa
vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện
trả lãi và các điều kiện khác”. Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005
quy định giấy tờ có giá là: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc.
Khoản 16 Điều 3 của Luật
Đất đai năm 2013 quy định: "Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp
lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Mục 1 Phần
I Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của
Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng
dân sự hướng dẫn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành
chính; nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”. Theo đó, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là quyết định hành chính, không phải là “bằng chứng
xác nhận nghĩa vụ trả nợ” cho nên không phải là
giấy tờ có giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX xác định giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá vẫn phù hợp với Bộ luật Dân
sự năm 2015 và các pháp luật khác đang có hiệu lực.
Điều 164 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy
định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu
cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm
quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Như vậy, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc người chiếm giữ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chấm dứt hành
vi cản trở thực hiện quyền của
người sử dụng đất thì Tòa án nhân dân sẽ thụ lý giải quyết theo quy định
tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Theo quy định tại điểm d
và điểm g khoản 2 Điều 17 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018 thì
Công chứng viên có nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc
công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu
cầu công chứng và chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công
chứng về văn bản công chứng của mình.
Điều 38 của Luật Công chứng
sửa đổi năm 2018 quy định:
“1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi
thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là
cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.
2. Công chứng viên, nhân
viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một
khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường
cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả
thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Khoản 4 Điều 68 của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy
định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là
người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các
đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết
vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan".
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, tùy
từng trường hợp mà Tòa án xem xét có đưa tổ chức hành nghề công chứng vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng có liên quan đến nghĩa vụ giải thích của Công chứng viên
theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 17 của Luật Công
chứng sửa đổi năm 2018, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng của tổ chức hành nghề
công chứng thì Tòa án xem xét đưa tổ chức hành nghề công chứng vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Khoản 1 Điều 138 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định: "Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân
khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Khoản 4 Điều 85 của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy
định: “Người đại diện theo ủy
quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố
tụng dân sự”.
Khoản 2 Điều 86 của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy
định: “Người đại diện theo ủy
quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương
sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.
Theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của
khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân thì pháp nhân có quyền ủy quyền cho pháp nhân
hoặc cá nhân khác khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải
quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Trường hợp này, VAMC đã mua
lại khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, sau đó VAMC có văn bản ủy quyền cho tổ chức
tín dụng với nội dung tổ chức tín dụng được khởi kiện và tham gia tố tụng tại
Tòa án để giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ
xấu thì tổ chức tín dụng được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự
của đương sự. Do vậy, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải triệu tập và tống đạt văn bản tố tụng cho tổ
chức tín dụng được ủy quyền, không phải triệu tập và tống đạt các văn bản tố
tụng cho VAMC.
5. Trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự, nguyên đơn không nộp tiền chi phí định giá theo điểm
đ khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Vậy, trong trường hợp này
nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án như trường hợp người khởi kiện rút đơn
khởi kiện hay không?
Theo quy định tại điểm đ
khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì:
“Sau khi thụ lý vụ án thuộc
thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
trong các trường hợp sau đây:
...đ) Nguyên đơn không nộp
tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của
Bộ luật này...”
Khoản 1 Điều 218 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: “Khi có quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về
nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp
khác theo quy định của pháp luật...”.
Như vậy, theo các quy định
nêu trên thì trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
vì lý do “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác” thì nguyên đơn không có quyền khởi kiện lại để yêu cầu
Tòa giải quyết tiếp vụ án như đối với trường hợp rút đơn khởi kiện.
Theo quy định tại khoản
3 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) thì:
"Đối với tranh chấp về
hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì nghĩa vụ
chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau:
a) Trường hợp một bên yêu
cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một
bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu và đều không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bên
yêu cầu công nhận hợp đồng phải chịu
án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch; nếu Tòa án tuyên bố công nhận hợp đồng thì bên yêu cầu
tuyên bố hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự
không có giá ngạch;
b) Trường hợp một bên yêu
cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu
cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì ngoài
việc chịu án phí không có giá ngạch được quy định tại điểm a, khoản 3
Điều này, người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại
phải chịu án phí như trường hợp vụ án
dân sự có giá ngạch đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.”
Căn cứ quy định nêu trên,
trường hợp ông B yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu, ông A và ông B không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu thì ông A phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án không có giá
ngạch.
Trường hợp ông B yêu cầu
tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu,
thì ông A phải chịu án phí không có giá ngạch và án phí theo giá ngạch của số
tiền 500 triệu đồng phải trả cho ông B.
Khoản 5 Điều 26 của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy
định những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong đó
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế tài sản.
Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy
định: "1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự,
hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh
chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh
doanh, thương mại quy định tại khoản 1
Điều 30 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao động
quy định tại Điều 32 của Bộ luật này”.
Điều 34 của Bộ luật Tố tụng
dân sự quy
định:
"1. Khi giải quyết vụ
việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc
dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy
định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể
và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ
việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong
cùng một vụ việc dân sự đó.
3. Khi xem xét hủy quyết
định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người
có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của
mình về quyết định cá biệt bị Tòa án xem
xét hủy.
4. Thẩm quyền của cấp Tòa
án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá
biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của
Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Khoản 4 Điều 32 của Luật Tố
tụng hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền
giải quyết: "Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”.
Như vậy, trường hợp đương sự khởi kiện yêu
cầu chia di sản thừa kế, không yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 26 và khoản 1 Điều 35 của
Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân cấp huyện.
Trường hợp đương sự yêu cầu chia di sản thừa
kế đồng thời yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; căn cứ Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Khoản 2 Điều 244 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: "Trường hợp có đương sự rút
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và
đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Theo quy định tại khoản
3 Điều 18 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì “Trường hợp
Tòa án ra quyết định đình chỉ
giải quyết yêu cầu trong vụ án dân sự vì lý do bị đơn có yêu cầu phản tố rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập rút yêu cầu thì tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã nộp”.
Như vậy, trường hợp nguyên
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan rút
một phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì Tòa án đình chỉ giải quyết phần
yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đã rút, tiền tạm ứng án phí không được trả lại cho đương sự. Việc đình chỉ và xử lý
tiền tạm ứng án phí sẽ được Hội đồng xét xử nhận định và quyết định trong bản án. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút
toàn bộ yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì tiền tạm ứng án phí sẽ được Tòa án
trả lại cho đương sự.
Điểm e khoản 1 Điều 192 của
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp trong đơn
khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường
xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được
nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác
định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý,
giải quyết theo thủ tục chung.
Điểm a khoản 1 Điều 5 của
Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 hướng dẫn một số quy
định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân
sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi
kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án
(sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP) quy định: “Địa chỉ
nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được
xác định như sau: Nếu người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn
còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa
chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thường trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú”.
Khoản 2 Điều 5 của Nghị
quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Người khởi kiện đã
cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại
khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp
đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn
cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều
192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”.
Khoản 1 Điều 6 của Nghị
quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Trường hợp trong đơn
khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải
nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung”.
Căn cứ các quy định trên,
người khởi kiện đã ghi đúng, đầy đủ
địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ ghi
trong giao dịch, hợp đồng thì Tòa án phải thụ lý vụ án mà không được yêu cầu
người khởi kiện phải cung cấp bổ sung văn bản xác minh nơi cư trú của bị đơn và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án mà không tống
đạt được văn bản tố tụng, xác minh tại địa phương thì họ đã đi khỏi nơi cư trú
6 tháng trước; đây được xác định là trường hợp người bị kiện, người có quyền,
nghĩa vụ liên quan giấu địa chỉ. Tòa án căn cứ quy định tại điểm
a, điểm b khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP để tiếp tục
giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án.
Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định việc
đương sự rút một phần yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa thì được xử lý
như thế nào mà chỉ quy định việc đương sự rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện
tại điểm a khoản 2 Điều 210, điểm c khoản 1, 2, 3, 4 Điều
217, khoản 1 Điều 29, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định: “Trường hợp có đương sự rút
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện
thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn
bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Trường hợp này, việc A rút yêu cầu đối với 20
chỉ vàng phải được ghi nhận vào Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án căn
cứ Điều 212 của Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự.
Về
án phí, theo quy định tại khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 thì “Các bên đương sự thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước
khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch”.
Do vậy, các đương sự phải
chịu 50% mức án phí đối với số tiền 10.000.000 đồng, khoản tiền tạm ứng án phí
đã nộp đối với yêu cầu trả 20 chỉ vàng thì đương sự không phải chịu án phí nên
sẽ được hoàn trả lại.
Khoản 4 Điều 147 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: "Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu
án phí sơ thẩm, không phụ
thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một
nửa án phí sơ thẩm”.
Điểm a khoản 5 Điều 27 của
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Nguyên đơn phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp
nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp thuận tình ly hôn
thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí”.
Căn cứ các quy định nêu
trên, trong vụ án ly hôn, nguyên đơn phải
chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, trường hợp
thuận tình ly hôn thì các bên đương sự phải chịu 50% mức án phí quy định (mỗi
bên phải chịu 25% mức án phí quy định).
Trong trường hợp này, các
bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án
quyết định đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Do các đương sự đã thỏa
thuận tự nguyện ly hôn nên các đương sự chỉ phải chịu 50% mức án phí quy định
đối với yêu cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định); về quan
hệ tài sản thì mức án phí mỗi bên phải chịu dựa trên giá trị tài sản mà mỗi bên
được chia theo quy định của pháp luật về án phí.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc trong xét xử
của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong
quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
|
KT. CHÁNH ÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét