HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số:
01/2024/NQ-HĐTP |
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2024 |
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24
tháng 11 năm 2014;
Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình ngày 19
tháng 6 năm 2014;
Căn cứ Bộ luật Dân sự ngày 24 tháng 11 năm
2015;
Căn cứ Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 25 tháng
11 năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Để áp dụng đúng và thống nhất một số quy định
của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình;
Sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
Điều 2. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy
định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. “Đang có thai” quy định
tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là khoảng thời gian vợ mang
trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm
sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.
2. “Sinh con” quy định tại
khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
a) Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong
khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi;
b) Vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng
thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;
c) Vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải
đình chỉ thai nghén.
3. Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con
hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai nghén
hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này.
4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì
chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với
ai.
5. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng
tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.
6. Trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo thì việc xác định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn của chồng như sau:
a) Chồng của người mang thai hộ không có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang
nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
b) Chồng của người nhờ mang thai hộ không có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi
hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12
tháng tuổi.
Điều 3. Thuận tình ly hôn quy định tại Điều
55 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. “Vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn” quy
định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình là trường hợp vợ chồng cùng ký
vào đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản
khi ly hôn hoặc một bên có đơn khởi kiện ly hôn, còn bên kia đồng ý ly hôn,
thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài
sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con phải không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
3. Thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài
sản bao gồm cả trường hợp vợ chồng không yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia
tài sản.
4. “Việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con” quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình
là việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình.
Điều 4. Ly hôn theo yêu cầu của một bên quy
định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. “Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình” là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
2. “Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ
của vợ, chồng” là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người kia.
Ví dụ: Vợ, chồng phá tán tài sản gia đình.
3. “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” là
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không có tình nghĩa vợ chồng, ví dụ: vợ,
chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly
thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng;
b) Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình;
c) Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại
đến sức khỏe của nhau;
d) Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa
vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng;
không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Điều 5. Hạn chế phân chia di sản của vợ,
chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết quy định
tại khoản 3 Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình
Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều
66 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 661 của Bộ luật Dân sự là trường hợp
người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ
hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không
có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất...
Ví dụ 1: Trước khi kết hôn, anh A mua được
một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m2. Sau đó anh A kết hôn với chị
B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh
được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu
cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào
khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không
thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là
ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con.
Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và
mua được ngôi nhà có diện tích 35 m2. Sau khi sinh được một người
con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản
do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có
chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo
đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh
toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có
khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C
trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của chị D và con.
Điều 6. Giải quyết việc nuôi con khi ly hôn
quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. Khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt
của con” quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình
phải đánh giá khách quan, toàn diện các tiêu chí sau đây:
a) Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con
khỏi bị xâm hại, bóc lột;
b) Quyền của con được sống chung với người
trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp
nuôi;
c) Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ;
d) Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con;
đ) Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn
môi trường sống, giáo dục của con;
e) Nguyện vọng của con được ở cùng với anh,
chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con;
g) Nguyện vọng của con được sống chung với
cha hoặc mẹ.
2. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên từ
đủ 07 tuổi trở lên quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình
và khoản 3 Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự phải bảo đảm các yêu cầu sau
đây:
a) Bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, độ
tuổi, mức độ trưởng thành để con có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến của mình;
b) Không lấy ý kiến trước mặt cha, mẹ để
tránh gây áp lực tâm lý cho con;
c) Không ép buộc, không gây áp lực, căng
thẳng cho con.
3. “Người mẹ không đủ điều kiện để trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” quy định tại khoản
3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình là trường hợp người mẹ thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bị bệnh nặng khác
mà không thể tự chăm sóc bản thân hoặc không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con;
Ví dụ: Trường hợp người mẹ bị đột quỵ và liệt
nửa người, không còn khả năng đi lại thì Tòa án không giao con dưới 36 tháng
tuổi cho người mẹ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
b) Có thu nhập mỗi tháng thấp hơn một nửa
tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người mẹ đang cư trú và không có tài sản nào
khác để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
c) Người mẹ không có điều kiện về thời gian
tối thiểu để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
4. Trường hợp điều kiện trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con của người cha không tốt hơn điều kiện của người mẹ
hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tòa án quyết định giao con cho mẹ trực tiếp
nuôi.
Điều 7. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con quy định
tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. Trường hợp người trực tiếp nuôi con không
yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng thì Tòa án giải thích cho họ
việc yêu cầu cấp dưỡng cho con là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con.
Nếu xét thấy người trực tiếp nuôi con có khả năng, điều kiện nuôi dưỡng và việc
họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện thì Tòa án không buộc bên kia phải cấp
dưỡng cho con.
2. Tiền cấp dưỡng cho con là toàn bộ chi phí
cho việc nuôi dưỡng, học tập của con và do các bên thỏa thuận. Trường hợp các
bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu
nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của
người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn
một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi
tháng đối với mỗi người con.
3. Trường hợp các bên không thỏa thuận được
phương thức cấp dưỡng thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng hàng tháng
hoặc phương thức khác phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con và điều kiện kinh tế
của người cấp dưỡng.
4. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình phát sinh kể từ thời điểm cha, mẹ không sống chung với con
hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác.
Điều 8. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên quy định tại Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. “Bị kết án về một trong các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý” là
bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong các tội quy
định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên với lỗi cố ý.
Ví dụ: Cha, mẹ bị kết án bằng bản án có hiệu
lực pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 của Bộ luật
Hình sự đối với con chưa thành niên.
2. “Hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” là không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của con hoặc làm tổn hại đến sư phát triển toàn diện của con.
Ví dụ: Cha, mẹ bỏ mặc con chưa thành niên tự
sinh sống, không có điều kiện để tự nuôi mình dẫn đến con có hành vi trộm cắp
tài sản.
3. “Phá tán tài sản của con” là
mua, bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến tài sản của
con mà không vì lợi ích của con.
4. “Có lối sống đồi trụy” là lối
sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng, trái với thuần phong, mỹ
tục của dân tộc.
Ví dụ: Cha, mẹ thực hiện hoạt động mại dâm.
5. “Xúi giục, ép buộc con làm những
việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” là hành vi kích động, dụ dỗ,
thúc đẩy, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn đến
con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Ví dụ: xúi giục, ép buộc dẫn đến con bỏ học,
trộm cắp, lừa đảo, vận chuyển trái phép chất ma túy.
6. Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu
của cá nhân, cơ quan, tổ chức ra quyết định về việc cha, mẹ bị hạn chế quyền
đối với con chưa thành niên, cụ thể như sau:
a) Không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc,
giáo dục con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 4 và 5 Điều
này;
b) Không cho cha, mẹ quản lý tài sản của con
khi cha, mẹ có hành vi quy định tại khoản 3 Điều này;
c) Không cho cha, mẹ đại diện theo pháp luật
cho con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
7. Tòa án quyết định rút ngắn thời hạn hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong trường hợp cha, mẹ đã
thực hiện được một phần hai thời hạn theo quyết định của Tòa án và trong thời
hạn này, cha, mẹ không thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản
1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
Điều 9. Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án
về hôn nhân và gia đình trong một số trường hợp
1. Vụ án về hôn nhân và gia đình có tranh
chấp về bất động sản mà nơi cư trú, làm việc của bị đơn, nguyên đơn quy định
tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và nơi có bất
động sản đang tranh chấp khác nhau thì thẩm quyền của Tòa án được xác định theo
quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Trường hợp cha và mẹ là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài có đơn khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con
sau khi ly hôn, con chung đang sinh sống tại Việt Nam thì thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án Việt Nam theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 469 của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Điều 10. Giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là
người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ
Trong vụ án ly hôn, người Việt Nam ở trong
nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và nguyên đơn chỉ cung cấp được
địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa
chỉ của bị đơn ở nước ngoài thì Tòa án giải quyết như sau:
1. Trường hợp qua người thân thích của bị đơn
có căn cứ xác định họ có liên hệ với người thân thích ở trong nước nhưng người
thân thích của họ không cung cấp địa chỉ của bị đơn cho Tòa án, không thực hiện
yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì được coi là cố tình giấu địa
chỉ.
Trường hợp Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai
mà người thân thích của họ không cung cấp địa chỉ của bị đơn cho Tòa án, không
thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì Tòa án tiếp tục giải
quyết, xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.
2. Sau khi xét xử, Tòa án gửi cho người thân
thích của bị đơn bản sao bản án, quyết định để họ chuyển cho bị đơn, đồng thời
tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của bị đơn và nơi người thân thích của bị đơn
cư trú để đương sự có thể thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật
tố tụng.
Điều 11. Án phí trong giải quyết vụ án hôn
nhân và gia đình
1. Đương sự phải chịu án phí trong vụ án
tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con theo quy định tại Điều 26 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án, trừ trường hợp tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
2. Trong vụ án ly hôn mà các bên đương sự
thuận tình ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì cần
phân biệt như sau:
a) Trường hợp các bên đương sự thuận tình ly
hôn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì các bên đương sự phải chịu 50% mức án
phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định);
b) Trường hợp các bên đương sự thuận tình ly
hôn tại phiên tòa sơ thẩm thì các bên đương sự phải chịu 100% mức án phí quy
định (mỗi bên phải chịu 50% mức án phí quy định).
3. Trường hợp trước khi mở phiên tòa, các bên
đương sự tự nguyện ly hôn nhưng không thỏa thuận được về con chung và tài sản
chung mà Tòa án xét xử và ra bản án sơ thẩm thì các đương sự phải chịu 50% mức
án phí quy định đối với yêu cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí
quy định); về quan hệ tài sản thì mức án phí mỗi bên phải chịu tương ứng với
giá trị phần tài sản mà mỗi bên được chia theo quy định của pháp luật về án
phí.
Điều 12. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 24 tháng 4 năm 2024 và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2024.
2. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng
mắc, đề nghị phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao để hướng dẫn bổ sung kịp
thời.
|
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét